Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhà ở là tài sản bắt buộc phải đăng kí quyền sở hữu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định với trường hợp nhà là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rất nhiều trường hợp nhà là tài sản chung vợ chồng nhưng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ đứng tên vợ hoặc chồng. Vậy trong những trường hợp này, người vợ hoặc người chồng không đứng tên trên giấy chứng nhận có được chia nhà khi ly hôn.
Qua bài viết này, Luật Nam Phát sẽ giúp bạn có cách nhìn nhận đúng về điều này, từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi ly hôn.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 vợ và chồng đều có quyền và nghĩa vụ như nhau đối với tài sản chung. Theo đó, có thể thấy pháp luật hiện hành công nhận vợ và chồng có quyền như nhau đối với tài sản chung. Khi ly hôn, vợ và chồng có quyền thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản chung. Như vậy, để xác định quyền được chia tài sản của vợ hoặc chồng không đứng tên trên sổ đỏ nhà khi ly hôn chúng ta cần làm rõ hai vấn đề sau:
Thứ nhất, cần xác định được nhà ở đứng tên của vợ hoặc chồng nhưng là tài sản chung của vợ chồng.
Về nguyên tắc, đối với nhà ở được xác định là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng pháp luật quy định là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng và giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên cả hai vợ chồng. Tuy nhiên, điều này không phải là bắt buộc. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở vẫn có thể chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.
Có thể nói việc đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với nhà là căn cứ để xác định quyền định đoạt, quyền sử dụng đối với tài sản. Tuy nhiên, đây không phải là căn cứ để xác định tài sản này không phải là tài sản chung của vợ chồng. Bởi tại Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã quy định rất rõ ràng những tài sản được coi là tài sản chung của vợ chồng. Đó là những tài sản có trong thời kỳ hôn nhân do hai vợ chồng cùng tạo nên, các khoản thu nhập cũng như tài sản do thừa kế, tặng cho chung hoặc là tài sản riêng, được tặng cho, thừa kế riêng nhưng đã thỏa thuận là tài sản chung, kể cả quyền sử dụng đất. Ngoài ra, các khoản hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng (trừ tài sản mới được chia thành tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân) cũng được coi là tài sản chung.
Như vậy, căn cứ theo quy định này, trường hợp nhà ở chỉ đứng tên của vợ hoặc chồng vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi có một trong những căn cứ sau đây:
– Nhà ở là kết quả do vợ, chồng cùng tạo lập được
– Nhà ở là tài sản được tặng cho, thừa kế chung
– Nhà ở là tài sản riêng của vợ chồng nhưng đã thỏa thuận là tài sản chung
Thứ hai, quyền của vợ hoặc chồng không đứng tên trong sổ đỏ đối với nhà khi ly hôn
Khi quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng lâm vào tình trạng bế tắc, mâu thuẫn kéo dài, đời sống chung không thể duy trì, mục đích của hôn nhân không đạt được và có yêu cầu ly hôn, quan hệ vợ chồng sẽ chấm dứt theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Về nguyên tắc, khi ly hôn vợ chồng có quyền tự thỏa thuận với nhau về toàn bộ các vấn đề, trong đó có tài sản. Trường hợp hai bên không thỏa thuận được và có yêu cầu, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết theo luật định.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình 2014 và Khoản 3 Điều 7 Thông tư liên tịch 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau:
– Tòa án căn cứ vào công sức đóng góp của vợ, chồng trong việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung, chẳng hạn như đóng góp về tài sản riêng, thu nhập, lao động của vợ, chồng,…Cần lưu ý rằng: quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung là như nhau, lao động của người vợ hoặc người chồng trong gia đình (Ví dụ: Ở nhà chăm sóc con mà không được đi làm,..) cũng được coi tương đương như lao động có thu nhập.
– Việc chia tài sản chung phải đảm bảo lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập. Tuy nhiên, phải đảm bảo không được ảnh hưởng đến điều kiện sống tối thiểu của vợ, chồng và con chưa thành niên, con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự.
Ngoài ra, khi chia tài sản chung tòa án còn căn cứ vào hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng sau khi ly hôn cũng như yếu tố lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng dẫn đến ly hôn.
Như vậy, đối với tài sản là nhà ở chỉ đứng tên của vợ hoặc chồng nhưng được xác định là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân thì khi ly hôn cũng sẽ được chia theo nguyên tắc này. Trong trường hợp có tranh chấp giữa vợ và chồng về việc nhà ở đứng tên của một bên là tài sản riêng thì người cho rằng tài sản này là tài sản riêng có nghĩa vụ phải chứng minh. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản này là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung ( Theo Khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014). Quy định này tạo điều kiện cho người vợ hoặc người chồng không đứng tên trên sổ đỏ nhà khi ly hôn có thể bảo vệ được quyền của mình một cách tối đa nhất.